GiadinhNet – Theo các chuyên gia, cơ cấu “dân số vàng” vừa mang lại cơ hội đồng thời cũng mang lại những thách thức cho sự phát triển đất nước. Nhiều quốc gia đã tận dụng được cơ hội này để bứt phá, phát triển nhanh nhưng không ít nước đã bỏ lỡ, chìm sâu trong “bẫy thu nhập trung bình”. Vì vậy, cần khẩn trương tận dụng cơ hội này để góp phần phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Để góp phần phát huy thế mạnh “vàng”, hạn chế những thách thức của thời kỳ này, Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã nhấn mạnh: Phát huy tối đa lợi thế cơ cấu dân số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước nhanh, bền vững. Nhằm tìm ra những giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tận dụng tối đa những lợi thế mà thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” đem lại, Báo điện tử Gia đình và Xã hội (giadinh.net.vn), Tổng cục Dân số (Bộ Y tế) tổ chức Giao lưu trực tuyến với chủ đề: “Tận dụng cơ cấu dân số vàng, nắm bắt lợi thế” vào lúc 9h ngày 8/12/2020. Vì thời lượng chương trình có hạn nên các chuyên gia đã giải đáp những câu hỏi gửi đến sớm nhất và có nội dung bao trùm. Các câu hỏi còn lại xin hẹn quý bạn đọc trong chương trình giao lưu sau.
Đúng 9h sáng 8/12 chương trình giao lưu trực tuyến bắt đầu. Ông Nguyễn Chí Long, – Phó Tổng biên tập Báo Gia đình và Xã hội, Báo điện tử Giadinh.net.vn (đầu tiên bên trái) phát biểu khai mạc và tặng hoa cảm ơn các khách mời đến tham gia chương trình. Từ phải qua: TS Đinh Huy Dương, Vụ trưởng Vụ Truyền thông – Giáo dục, Tổng cục Dân số, Bộ Y tế; PGS.TS Lưu Bích Ngọc, Chánh Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Nhà giáo Ưu tú, TS Phạm Xuân Khánh, Phụ trách Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà Nội. Ảnh chương trình giao lưu: Chí Cường
Vì thời lượng chương trình có hạn nên các chuyên gia đã giải đáp những câu hỏi gửi đến sớm nhất và có nội dung bao trùm. Các câu hỏi còn lại xin hẹn quý bạn đọc trong chương trình giao lưu sau. Trong nhân khẩu học, thời kỳ cơ cấu ”
dân số vàng” là dân số có khả năng lao động (từ 15 đến 64 tuổi) chiếm tỷ lệ cao. Đây là thời kỳ mang lại cơ hội lớn để nâng cao chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực – yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, trên thế giới, cơ cấu “dân số vàng” thường kéo dài từ 30 – 35 năm hoặc lâu hơn. Điều đó đồng nghĩa với chừng ấy thời gian, mỗi quốc gia sẽ có được lực lượng lao động trẻ hùng hậu, đủ sức làm xoay chuyển nền kinh tế đất nước nếu biết khai thác tối đa nguồn tài nguyên quý giá này.
Thực tế, nhiều quốc gia châu Á đã biết tận dụng triệt để cơ hội “dân số vàng” để tạo nên những kỳ tích trong phát triển kinh tế, đóng góp khoảng 1/3 vào tăng trưởng như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc. Riêng Trung Quốc, cơ hội này đã mang lại 15% tăng trưởng kinh tế trong hơn 20 năm qua.
Tại Việt Nam, bắt đầu từ năm 2007, với tỷ số dân số phụ thuộc chung (nhóm dân số 0-14 tuổi và nhóm dân số trên 65 tuổi tính trên nhóm dân số 15-64) dưới 50%, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, lực lượng dân số trong độ tuổi lao động vẫn chưa tạo nên sức bật cho nền kinh tế, vì có trên 70% là lao động giản đơn. Sự thiếu hụt trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch… là những thách thức không nhỏ đặt ra cho giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”.
Cùng với đó, năm 2011, Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số khi tỷ trọng nhóm dân số 65 tuổi trở lên chiếm 7%. Các nhà nhân khẩu học nhận định, tốc độ già hóa dân số của Việt Nam thuộc hàng nhanh nhất thế giới. Điều này đặt ra nhiều thách thức đối với công tác chăm sóc sức khỏe và phát huy người cao tuổi, thích ứng với quá trình già hóa dân số ở nước ta. Các phương tiện thông tin đại chúng thời gian qua đã cho rằng: “Việt Nam chưa giàu đã già”.
Theo các chuyên gia, cơ cấu “dân số vàng” vừa mang lại cơ hội đồng thời cũng mang lại những thách thức cho sự phát triển đất nước. Nhiều quốc gia đã tận dụng được cơ hội này để bứt phá, phát triển nhanh nhưng không ít nước đã bỏ lỡ, chìm sâu trong “bẫy thu nhập trung bình”.
Hùng Cường
12:04 ngày 08/12/2020
@TS Đinh Huy Dương : Tôi có một thắc mắc xin được gửi tới TS Đinh Huy Dương. Hiện nay, nhắc đến việc tận dụng cơ cấu “dân số vàng” nhiều người thường nghĩ, đây là nhiệm vụ mang tầm vĩ mô của các nhà chiến lược, hoạch định chính sách, còn người dân không có vai trò tham gia vào việc giữ “dân số vàng”. Hiểu như vậy có đúng không thưa ông? Thời gian qua, chúng ta đã có những hoạt động truyền thông về thời kỳ “dân số vàng” tới người dân như thế nào thưa ông?
Kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng, cơ hội dân số chỉ tạo ra điều kiện, còn môi trường chính sách mới là yếu tố quyết định, cho phép tận dụng được cơ hội “dân số vàng” mang lại. Điều này dễ làm nhiều người hiểu đây là nhiệm vụ mang tầm vĩ mô của các nhà chiến lược, hoạch định chính sách, còn người dân không có vai trò tham gia vào việc tận dụng cơ cấu “dân số vàng”. Thực tế, vai trò của người dân vô cùng quan trọng. Người dân có thể tham gia vào thực hiện các chính sách dân số như sinh đủ hai con để kéo dài giai đoạn “dân số vàng”; tham gia vào quá trình tạo cơ hội việc làm, đa dạng hóa ngành nghề, đặc biệt ở nông thôn; tham gia các chương trình giáo dục và đào tạo nghề theo nhu cầu của thị trường lao động; tham gia các chương trình về kỹ năng sống, năng lực hành vi, kiến thức xã hội cần thiết, đặc biệt là với lực lượng lao động trẻ; bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bản thân để có khả năng tham gia lực lượng lao động…
Thời gian qua, Tổng cục Dân số cũng đã triển khai một số hoạt động truyền thông về thời kỳ “dân số vàng” như sau:
– Tập trung tuyên truyền các văn bản, chính sách quan trọng, định hướng kịp thời của Đảng và Nhà nước về vấn đề này như: Nghị quyết 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Hội nghị thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới; Nghị Quyết 137/NQ-CP ngày 31/12/2017 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW này. Để cụ thể hóa công tác truyền thông về tận dụng cơ cấu “dân số vàng”, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 537/QĐ-TTg ngày 17/4/2020 phê duyệt Chương trình Truyền thông dân số đến năm 2030 với mục tiêu: “Truyền thông nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp; bộ, ban, ngành, đoàn thể từ trung ương đến địa phương để huy động sự tham gia và cam kết với công tác dân số thông qua việc chỉ đạo, đầu tư nguồn lực, lồng ghép các vấn đề dân số trong chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; phát huy lợi thế của cơ cấu dân số vàng”.
– Cung cấp thông tin về dân số và phát triển đến cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể các cấp về “dân số vàng”.
– Xây dựng chương trình phối hợp với các bộ, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị – xã hội.
– Xây dựng các loại hình, sản phẩm truyền thông bảo đảm về chất lượng, đổi mới về hình thức, nội dung về tận dụng cơ hội “dân số vàng”.
– Xây dựng các chuyên trang, chuyên mục, chương trình, phóng sự, tin bài, sách, ảnh, sự kiện truyền thông; tận dụng tối đa lợi thế của công nghệ thông tin và các loại hình truyền thông khác.
– Hướng dẫn, tổ chức các hoạt động truyền thông về tận dụng cơ hội “dân số vàng” trực tiếp trong hệ thống dân số các cấp.
– Tổ chức hội thảo, hội nghị về tận dụng cơ hội “dân số vàng”.
Hoàng Thị Bích Lam
12:04 ngày 08/12/2020
@PGS.TS Lưu Bích Ngọc : Thưa PGS.TS Lưu Bích Ngọc, chúng ta thường vẫn nghe: Phải tận dụng lợi thế cơ cấu “dân số vàng”. Vậy, ở đây, chúng ta cần tận dụng những gì thưa bà?
Cơ cấu dân số vàng chỉ xuất hiện duy nhất trong lịch sử phát triển dân số khi trải qua thời kỳ quá độ và sau đó không lặp lại. Khi đó, dân số trong độ tuổi lao động (15-59 tuổi) đạt mức cao nhất cả về con số tương đối (tỷ lệ) lẫn con số tuyệt đối (số lượng). Khi nói tới tận dung lợi thế của “dân số vàng”, đó là tận dụng nguồn lực lao động dồi dào phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Qua giai đoạn này, dân số chuyển sang dân số già, sức lao động, sức sản xuất kém đi, lợi thế dân số không còn nữa.
Ngô Diệu Thủy
12:04 ngày 08/12/2020
@TS Phạm Xuân Khánh : TS Phạm Xuân Khánh: Thưa ông, để tận dụng cơ cấu “dân số vàng”, nước ta đã có các chính sách về phát triển nguồn nhân lực và chính sách về việc làm phù hợp hay chưa?
Theo các nhà nhân khẩu học, cơ cấu “dân số vàng” thường kéo dài từ 30 – 35 năm, thậm chí là 40 – 50 năm. Điều đó đồng nghĩa với chừng ấy thời gian đất nước có được lực lượng lao động trẻ hùng hậu, đủ sức làm xoay chuyển nền kinh tế đất nước nếu chúng ta biết khai thác tối đa nguồn tài nguyên quý giá này. Cơ hội dân số vàng được phát huy khi tỷ lệ lao động có việc làm cao.
Để biến cơ hội dân số vàng thành động lực tăng trưởng kinh tế thì việc đầu tiên cần làm là cải thiện chất lượng nguồn lao động.
Trước hết, cần lập chiến lược toàn diện về phát triển nguồn nhân lực, trong đó đào tạo nghề đóng vai trò rất quan trọng, mở rộng nâng cao chất lượng đào tạo nghề theo nhu cầu thị trường lao động. Đa dạng hóa ngành nghề, các ngành sử dụng nhiều lao động ở khu vực nông thôn và thúc đẩy đào tạo, bồi dưỡng năng lực cho nguồn lao động này. Tăng cường cơ hội việc làm, nhất là cho thanh niên vùng nông thôn, miền núi. Tạo bình đẳng giới trên thị trường lao động; chính sách di dân bảo đảm phân bố dân cư và lao động hợp lý cho các vùng, miền khu vực. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế nhằm kéo dài thời gian cơ cấu “dân số vàng”, làm chậm quá trình “già hóa dân số”.
Đồng thời, để tạo được nhiều việc làm, cần có chính sách khuyến khích tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng xa xỉ, nâng cao tích lũy, thu hút, khuyến khích đầu tư tạo việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, bảo đảm “người có khả năng làm việc” là có việc làm. Thúc đẩy dịch chuyển cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật để người lao động có việc làm với năng suất cao.
Để phát huy lợi thế của cơ cấu “dân số vàng” cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trên cũng như sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn dân.
Hoàng Xuân Hùng
11:54 ngày 08/12/2020
@TS Phạm Xuân Khánh : Thưa TS Phạm Xuân Khánh, là người có nhiều năm trong việc đào tạo nguồn nhân lực, thời gian tới, chúng ta cần chú trọng vào đào tạo nhân lực ở những lĩnh vực nào để đảm bảo quá phát triển bền vững của đất nước cũng như bắt kịp quá trình hội nhập với quốc tế?
Thế giới đã và đang trải qua những biến đổi to lớn, trong đó có chuyển đổi số, cách mạng công nghiệp 4.0, các vấn đề an ninh phi truyền thống, dịch bệnh… Nhiều ngành sản xuất, nhiều phương thức sản xuất sẽ dần bị thay thế. Lao động sẽ bị đào thải, thậm chí thay thế bởi tự động hóa trong vài thập kỷ tới. Và những ngành nghề mới, phương thức mới, việc làm mới sẽ ra đời.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, trong 10-15 năm tới khoảng 1/3 công việc hiện tại sẽ bị thay thế bởi máy móc, trí tuệ nhân tạo; khoảng 40% lao động toàn cầu sẽ phải bổ sung kỹ năng mới để đáp ứng yêu cầu công việc.
Đã có rất nhiều diễn đàn ở các cấp độ bàn về phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Dù ở cấp độ nào, giác độ nào, các diễn đàn này đều khẳng định phải tăng cường đổi mới giáo dục để mọi người dân, ngay từ khi còn nhỏ, phải được thôi thúc, khơi dậy tính sáng tạo, được rèn luyện kỹ năng thích ứng với sự thay đổi.
Trong Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035, Chính phủ đã xác định 3 nhóm ngành công nghiệp lựa chọn ưu tiên phát triển, gồm: Công nghiệp chế biến chế tạo, Điện tử và viễn thông, Năng lượng mới và Năng lượng tái tạo. Trong đó tập trung phát triển 10 ngành trọng điểm bao gồm: Ngành điện, ngành điện tử, ngành công nghệ thông tin, ngành cơ khí-luyện kim, ngành dầu khí, khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, ngành chế biến nông lâm, thủy sản, thực phẩm, đồ uống, ngành hóa chất, ngành dệt may, da giày. Đặc biệt là nguồn nhân lực trình độ cao như kỹ sư cơ khí, kỹ sư thủy sản, kỹ sư công nghệ thông tin…
Bên cạnh đó, trong thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức hiện nay, ngành dịch vụ có vai trò ngày càng quan trọng. Dịch vụ cũng trở thành ngành kinh tế thu hút chủ yếu lực lượng lao động hiện nay. Chính phủ không những khuyến khích những ngành dịch vụ mũi nhọn phát triển làm động lực cho nền kinh tế mà còn quan tâm đến việc cung ứng tốt hơn các loại hình dịch vụ xã hội như môi trường, y tế, sức khoẻ và an sinh xã hội cho người dân. Đặc biệt là ngành dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao – ngành dịch vụ tri thức.
Trịnh Thị Thu Hà
11:44 ngày 08/12/2020
@TS Phạm Xuân Khánh : Tôi có một thắc mắc xin hỏi TS Phạm Xuân Khánh. Hiện nay, trong xã hội có một thực tế là, phần lớn những người học càng cao thì cơ hội có được việc làm tương xứng lại càng khó, nhiều sinh viên được đào tạo đại học chính quy ra trường 2-3 năm nhưng vẫn chưa thể kiếm được việc làm. Xin ông có thể lý giải về thực trạng này? Tại sao lại như vậy?
Đây là 1 bất cập của xã hội trong vấn đề đào tạo gắn với giải quyết việc làm.
Tôi xin lý giải tại sao nhiều sinh viên được đào tạo đại học chính quy ra trường 2-3 năm nhưng vẫn chưa thể kiếm được việc làm:
Lý do thứ Nhất:
Năm học 2020, có 900,097 em dự thi tốt nghiệp PTTH (đỗ tốt nghiệp 98,3%) nhưng có tới 643.000 em đăng ký dự tuyển vào đại học chiếm 71,4% với 2,5 triệu nguyện vọng. Như vậy còn bao nhiêu em đi học nghề, đi lao động không qua đào tạo, đi nghĩa vụ quân sự hoặc đi xuất khẩu lao động…? Chắc chắn 1 tỷ lệ rất nhỏ! Trong khi các doanh nghiệp lại mong muốn tuyển lao động qua đào tạo nghề vì sinh viên học nghề có kiến thức, kỹ năng, thái độ lao động đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng lao động của doanh nghiệp và có thể tham gia ngay vào hoạt động, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Do bất cập về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề. Khi đã có sự bất cập về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề thì dù sinh viên có học giỏi đến mấy cũng sẽ khó tìm được việc làm.
Lý do thứ 2 là do chính sinh viên:
Thiếu định hướng nghề nghiệp trước khi học
Nguyên nhân đầu tiên chính là việc hướng nghiệp không phù hợp, dẫn đến xác định sai ngành học. Ở Việt Nam, việc chọn nghề phụ thuộc rất nhiều vào quyết định của các bậc phụ huynh. Với tâm lý luôn muốn che chở, bao bọc con, các bậc cha mẹ thường thiên về những ngành “an toàn”, mang lại danh tiếng, như kỹ sư, bác sĩ,…Mặt khác, xu hướng thị trường cũng là một điều đáng nói. Một số bạn trẻ còn có xu hướng chạy theo các nghề “hot” để theo kịp bạn bè, chứ không thực sự vì đam mê và đúng sở trường.
– Học thụ động: Với cách học này, sinh viên không những không nắm được kiến thức, mà còn quen với tính cách lười nhác, thiếu chủ động trong tất cả các công việc sau này.
– Ngoại ngữ hạn chế: Một trong các lý do tạo nên làn sóng “cử nhân thất nghiệp” chính là vấn đề tiếng Anh. Chúng ta đều biết tiếng Anh được xem như là tấm vé thông hành trong tất cả mọi ngành nghề trong thời kỳ hiện đại. Tuy nhiên, trình độ tiếng Anh của số đông sinh viên hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng.
– Không chú trọng trang bị các kỹ năng mềm như an toàn lao động; năng lực giao tiếp, làm việc nhóm; năng lực giải quyết vấn đề; năng lực tổ chức thực hiện…
– Cuối cùng là tư tưởng thích làm thầy trong khi thiếu hụt rất nhiều kiến thức kỹ năng và đặc biệt là thái độ với công việc. Thực tế, nhiều doanh nghiệp không muốn tuyển dụng những đối tượng này. Do đó, nhiều sinh viên đại học sau khi ra trường đã phải giấu bằng ĐH để đi làm công nhân hoặc trở lại học nghề để mong muốn có cơ hội việc làm.
Trương Lan Phương
11:40 ngày 08/12/2020
@TS Phạm Xuân Khánh : Thưa TS Phạm Xuân Khánh, nước ta đang trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” nghĩa là lực lượng dân số trong độ tuổi lao động lớn. Ngoài lợi thế đem lại nguồn lao động dồi dào cho sản xuất, thời kỳ “dân số vàng” ở nước ta có tồn tại những hạn chế nào không thưa ông? Việc dư thừa lao động không có tay nghề hoặc chất lượng không đảm bảo liệu có diễn ra?
Theo quan điểm của tôi, lao động nước ta chỉ “vàng” về số lượng, chưa “vàng” về chất lượng bởi:
– Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp. Hiện có gần 77% (hơn 43 triệu lao động) lực lượng lao động của cả nước không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, chủ yếu là lao động phổ thông, làm các công việc giản đơn, thiếu đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi, tay nghề cao trong nhiều lĩnh vực; khả năng tự tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động còn nhiều hạn chế. Cần phải nâng cao về năng lực quản lý; an toàn lao động; năng lực giao tiếp, làm việc nhóm; năng lực giải quyết vấn đề; năng lực tổ chức thực hiện; tự tư duy, tự nhận biết vấn đề và tự đưa ra được những đề xuất cải thiện, cải tiến hiệu suất công việc một cách tổng quát và luôn nỗ lực để có thể sản xuất được những sản phẩm chất lượng tốt hơn cho doanh nghiệp.
– Nguồn lao động không cân đối về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ. Trong khi nguồn lao động của chúng ta dồi dào, nhu cầu việc làm lớn, doanh nghiệp vẫn rơi vào tình trạng thiếu lao động. Nhiều doanh nghiệp đã phải thuê lao động nước ngoài. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thất nghiệp ngày càng gia tăng của nước ta hiện nay. Các nguồn đầu tư FDI đầu tư vào Việt Nam đã và sẽ bị suy giảm nghiêm trọng nếu không có sự thay đổi về chất lượng đào tạo trong thời gian tới, đất nước sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu về nguồn nhân lực, đang dần mất đi lợi thế về chi phí lao động thấp.
– Trình độ ngoại ngữ, tin học của hầu hết người lao động còn rất thấp; đặc biệt là trong môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam. Bên cạnh đó, tác phong công nghiệp còn bất cập, tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức văn hoá công nghiệp không được đánh giá cao, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa cao. Dẫn đến năng suất lao động thấp, thậm chí thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và thế giới.
Việc dư thừa lao động không có tay nghề hoặc chất lượng không đảm bảo liệu có diễn ra? Việt Nam đang trong quá trình hội nhập đồng thời cũng đối mặt với những khó khăn, thách thức rất lớn trong thị trường nhân lực cao do di chuyển lao động trong khu vực sẽ tạo nên cạnh tranh lành mạnh nhưng gay gắt. Nhân lực có trình độ cao trong khu vực Asean sẽ tự do di chuyển đến Việt Nam do chúng ta đang thiếu hụt lực lượng lao động này, dẫn đến vấn đề dư thừa lao động có kỹ năng và trình độ thấp, gây phá vỡ thị trường lao động truyền thống, đất nước sẽ dần mất đi lợi thế về lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu lao động trẻ và chi phí lao động thấp, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế- xã hội.
Văn Hiệp
11:36 ngày 08/12/2020
@TS Đinh Huy Dương : Thưa TS Đinh Huy Dương, có chuyên gia nhận định rằng: Nếu không chớp lấy những cơ hội của thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” thì đất nước phải đối mặt với những thách thức mới. Mà trước tiên là lực lượng đông đảo trong độ tuổi lao động thiếu việc làm, người thất nghiệp dễ mắc tệ nạn xã hội, trở thành gánh nặng cản trở sự phát triển của đất nước. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Đúng là như vậy, cơ cấu “dân số vàng” tạo ra nhiều thuận lợi, thế mạnh song cũng đặt ra không ít những khó khăn thách thức. Tốc độ tăng nhanh của dân số trong độ tuổi lao động sẽ là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế nhưng sẽ trở thành gánh nặng nếu quốc gia đó có tỷ lệ thất nghiệp cao và năng suất lao động thấp.
Thực trạng ở Việt Nam cho thấy, lực lượng lao động đông về số lượng nhưng chất lượng chưa cao do thiếu lao động có tay nghề cao, sức bền còn hạn chế, kỹ năng quản lý còn nhiều bất cập.
Hơn nữa, chất lượng giáo dục, đào tạo nghề chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu thị trường lao động. Tỷ lệ lao động nông nghiệp cao trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp do quá trình đô thị hóa và chuyển đổi mục đích sử dụng. Từ đó, dẫn đến tình trạng thiếu việc làm của thanh niên gia tăng. Mặt khác, lao động di cư thanh niên tăng nhanh song các chính sách lao động, việc làm và các dịch vụ xã hội liên quan còn nhiều bất cập.
Đối với nước ta thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” chỉ đến có một lần, nếu chúng ta không có chiến lược, chính sách, biện pháp để tranh thủ thời cơ thì nước ta sẽ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nếu cơ hội không được chớp lấy thì đất nước phải đối mặt với những thách thức mới. Mà trước tiên là lực lượng đông đảo trong độ tuổi lao động thiếu việc làm, người thất nghiệp dễ mắc tệ nạn xã hội, trở thành gánh nặng cản trở sự phát triển của đất nước. Như vậy, “dân số vàng” sẽ không có giá trị nhiều nếu không thực sự “vàng” về tri thức và tay nghề.
Thu Trà
11:34 ngày 08/12/2020
@TS Đinh Huy Dương : Trên thực tế, hiện nay, chất lượng dân số ở nước ta vẫn còn hạn chế; tầm vóc, thể lực người Việt chậm được cải thiện, tuổi thọ bình quân tăng nhưng số năm sống mạnh khỏe lại thấp hơn so với nhiều nước. Đây có phải là những tồn tại khiến chất lượng nguồn nhân lực “vàng” bị ảnh hưởng? Chúng ta cần có những biện pháp gì để giúp nâng cao chất lượng dân số?
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê, dân số Việt Nam đạt 96,2 triệu người, đứng vị trí thứ 15 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Chất lượng dân số đã được cải thiện về nhiều mặt, tuổi thọ người dân tiếp tục tăng (đạt trung bình khoảng 73,5 tuổi, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người); tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng dân số còn hạn chế, chỉ số phát triển con người (HDI) còn thấp, chậm được cải thiện. Tuổi thọ bình quân là 73,5 tuổi, nhưng số năm trung bình sống khỏe mạnh còn thấp, chỉ đạt 64 tuổi. Rõ ràng những tồn tại này khiến chất lượng nguồn nhân lực “vàng” bị ảnh hưởng. Nếu chất lượng dân số còn hạn chế, đặc biệt những người “trong độ tuổi lao động” bị ốm đau, bệnh tật, thương tật thì khả năng lao động bị hạn chế hoặc mất hoàn toàn. Vì vậy, nâng cao chất lượng dân số, tăng cường bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của toàn dân nói chung và những người “trong độ tuổi lao động” nói riêng là yêu cầu cơ bản nhằm tận dụng cơ hội cơ cấu “dân số vàng”.
Nâng cao chất lượng dân số, đảm bảo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội là một trong những mục tiêu phát triển hàng đầu của nước ta. Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số, bao gồm cả trình độ giáo dục, cơ cấu và trình độ nghề nghiệp – xã hội, tính năng động, mức sống, tình trạng sức khỏe và có quan hệ mật thiết với trình độ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Do đó, chất lượng dân số phải là mục tiêu phấn đấu của cả cộng đồng, quốc gia và được coi là “chìa khóa vàng” để mở ra cánh cửa phát triển bền vững của đất nước.
Trong Pháp lệnh Dân số cũng đã đề ra các biện pháp nâng cao chất lượng dân số bao gồm: 1) Bảo đảm quyền cơ bản của con người; quyền phát triển đầy đủ, bình đẳng về thể chất, trí tuệ, tinh thần; hỗ trợ nâng cao những chỉ số cơ bản về chiều cao, cân nặng, sức bền; tăng tuổi thọ bình quân; nâng cao trình độ học vấn và tăng thu nhập bình quân đầu người; 2) Tuyên truyền, tư vấn và giúp đỡ nhân dân hiểu và chủ động, tự nguyện thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; 3) Đa dạng hoá các loại hình cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng, đặc biệt về giáo dục, y tế để cải thiện chất lượng sống và nâng cao chất lượng dân số; 4) Thực hiện chính sách và biện pháp hỗ trợ đối với vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn để nâng cao chất lượng dân số.
Để nâng cao chất lượng dân số cần chú trọng thực hiện các giải pháp chính dưới đây:
– Giải pháp về chính sách và tổ chức quản lý: Đó là các chính sách duy trì mức sinh thay thế để có cơ cấu dân số đảm bảo sự phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng và mở rộng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe gia đình và phúc lợi xã hội; kiểm soát tỉ lệ giới tính khi sinh; hỗ trợ cá nhân, gia đình có các vấn đề về bệnh di truyền; nâng cao phúc lợi xã hội; đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản cho người di cư.
– Truyền thông giáo dục, chuyển đổi hành vi để tạo sự cam kết ủng hộ của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội về chương trình nâng cao chất lượng dân số; tăng cường tuyên truyền tư vấn, hỗ trợ nâng cao sức khỏe thể chất, trí tuệ và tinh thần cho các nhóm đối tượng đặc biệt; triển khai các mô hình cung cấp dịch vụ và vận động để tăng sự chấp nhận sàng lọc sơ sinh tại cộng đồng; đào tạo, cung cấp thiết bị cho các trung tâm tư vấn, dịch vụ dân số cấp tỉnh, thành phố.
– Nâng cao tầm vóc, thể lực người Việt Nam.
– Nâng cao trình độ dân trí.
– Xây dựng và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần.
– Tăng cường các dịch vụ xã hội chủ yếu có ảnh hưởng tới chất lượng dân số.
– Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ nâng cao chất lượng dân số.
Khương Thành Văn
11:28 ngày 08/12/2020
@TS Phạm Xuân Khánh : Hiện nay, nguồn cung lao động rất lớn nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, làm gia công. Vì vậy, để biến cơ hội “dân số vàng” thành động lực tăng trưởng thì việc đầu tiên cần làm là cải thiện chất lượng lao động, góp phần cải thiện khu vực sản xuất của nền kinh tế. Ông có đồng ý với điều này hay không?
Hoàn toàn đồng ý với bạn.
Tôi đồng ý với ý kiến của nhiều chuyên gia về việc biến cơ hội “dân số vàng” thành động lực tăng trưởng thì việc đầu tiên cần làm là cải thiện chất lượng lao động.
Như đã biết, mỗi năm, nước ta có từ 1,5 – 1,6 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Tuy nhiên lực lượng này vẫn chưa tạo nên sức bật cho nền kinh tế, vì có trên 70% là lao động giản đơn. Sự thiếu hụt trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch… là những thách thức không nhỏ đặt ra cho giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”.
Nếu giai đoạn “dân số vàng” diễn ra trùng với thời kỳ kinh tế ổn định, hệ thống giáo dục đảm đương tốt việc cung cấp tri thức, kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động, thì sẽ trở thành động lực mạnh của nền kinh tế. Ngược lại, nếu cơ hội không được chớp lấy thì đất nước phải đối mặt với những thách thức mới. Mà trước tiên là lực lượng đông đảo trong độ tuổi lao động thiếu việc làm, không đảm bảo an ninh xã hội, cản trở sự phát triển của đất nước. Như vậy, “dân số vàng” sẽ không có giá trị nếu không thực sự “vàng” về tri thức và tay nghề.
Trần Mạnh Linh
11:28 ngày 08/12/2020
@TS Phạm Xuân Khánh : Xin được hỏi TS Phạm Xuân Khánh, có ý kiến cho rằng, hiện nay, tình trạng lao động có tay nghề, kỹ năng cao còn hạn chế, nhất là trong các lĩnh vực thương mại, tài chính, ngân hàng. Điều này dẫn đến việc nước ta vẫn phải thuê nhiều chuyên gia nước ngoài về làm việc với mức lương trả rất cao. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Câu hỏi của bạn cũng chính là nỗi trăn trở nhiều năm nay của những người làm công tác đào tạo nguồn nhân lực như chúng tôi.
Trong đó, lĩnh vực thương mại, tài chính và ngân hàng là những lĩnh vực rất cần những chuyên gia có trình độ cao, có kiến thức chuyên môn và tầm nhìn mang tầm thế giới.
Trong khi chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay vẫn đang là thách thức khi Việt Nam đã và đang tham gia sâu vào quá trình hội nhập khu vực và quốc tế như gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định thương mại tự do (FTA) với EU, tham gia vào Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Tuy có một lực lượng lao động trẻ dồi dào nhưng vẫn thiếu hụt đội ngũ chuyên gia về tài chính, thương mại và ngân hàng đủ đáp ứng được yêu cầu cao của lĩnh vực này, chưa đáp ứng được sự phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Thực tế, trong nhiều lĩnh vực, nước ta vẫn phải thuê chuyên gia nước ngoài về làm việc và phải tốn rất nhiều chi phí. Là một người làm trong lĩnh vực đào tạo, tôi rất trăn trở khi đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường lao động để mất việc làm ngay trên sân nhà.
Nguyễn Thị Hảo
11:23 ngày 08/12/2020
@TS Đinh Huy Dương : Thưa TS Đinh Huy Dương, để tận dụng tối đa lợi thế của cơ cấu “dân số vàng”, thích ứng với quá trình già hóa dân số, nước ta đã có những chủ trương, chính sách như thế nào?
* Để tận dụng tối đa lợi thế của cơ cấu “dân số vàng”, Việt Nam đã có các chủ trương, chính sách, giải pháp sau:
Cơ cấu “dân số vàng” mới chỉ mang lại “khả năng”, “cơ hội” chứ chưa phải là đã đem lại ngay kết quả cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do vậy, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để tận dụng tối đa lợi thế của cơ cấu “dân số vàng”:
– Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách sử dụng lao động, lấy hiệu quả làm việc là tiêu chí ưu tiên hàng đầu trong sử dụng và đãi ngộ lao động.
– Tăng cường bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân: Thực hiện tốt giải pháp này sẽ nâng cao tỷ lệ những người “trong độ tuổi lao động” có khả năng làm việc vì những người “trong độ tuổi lao động” nhưng ốm đau, bệnh tật, khuyết tật, thương tật thì khả năng lao động bị hạn chế hoặc mất hoàn toàn. Bên cạnh đó, việc ốm đau, bệnh tật, khuyết tật, thương tật của người ngoài độ tuổi lao động như trẻ em và người cao tuổi cũng ảnh hưởng khả năng làm việc của người trong độ tuổi lao động vì phải nghỉ việc để chăm sóc. Vì vậy, tăng cường bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của toàn dân nói chung và những người “trong độ tuổi lao động” nói riêng là yêu cầu trước tiên, yêu cầu cơ bản nhằm tận dụng cơ hội cơ cấu “dân số vàng”.
– Tạo đủ việc làm cho người “có khả năng làm việc”: Nếu những người “có khả năng làm việc” lại thiếu việc làm hoặc thất nghiệp thì cơ hội “dân số vàng” bị bỏ lỡ; đất nước chậm, thậm chí không thể phát triển. Vì vậy, cần tăng cơ hội việc làm, hướng đến những việc làm tạo giá trị gia tăng cao dựa trên tăng năng suất lao động. Có chính sách xuất khẩu lao động đảm bảo tạo việc làm và thu nhập cho người lao động một cách bền vững. Mở rộng nâng cao chất lượng đào tạo nghề theo nhu cầu thị trường lao động. Tạo điều kiện tiếp cận cơ hội đào tạo nghề cho phụ nữ. Thúc đẩy dịch chuyển lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động; hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất xã hội; cải tiến quản lý; khuyến khích mọi người làm việc có năng suất và thu nhập cao.
– Xây dựng xã hội học tập tích cực, đào tạo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn góp phần phát triển kinh tế – xã hội. Cần tập trung đào tạo lao động có trọng điểm, chú ý đến lợi thế vùng miền. Dân số trong độ tuổi lao động phải được trang bị đầy đủ kỹ năng và kiến thức đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
* Để thích ứng với già hóa dân số, Việt Nam đã có những chủ trương, chính sách, giải pháp sau:
– Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền về công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi (NCT); đẩy mạnh tuyên truyền vận động thay đổi hành vi tạo môi trường xã hội ủng hộ và tham gia chăm sóc sức khỏe NCT; đồng thời củng cố, phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng chống dịch bệnh không lây nhiễm, khám chữa bệnh cho NCT; từng bước xây dựng mô hình chăm sóc sức khỏe dài hạn cho NCT.
– Xây dựng, hoàn thiện và triển khai đồng bộ các chính sách phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội cho NCT; gắn mục tiêu phát triển kinh tế với các mục tiêu xã hội phải được coi là chiến lược quan trọng hàng đầu.
– Nâng cao năng lực và vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp trong việc chăm sóc và phát huy NCT. Khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động chăm sóc NCT dựa vào cộng đồng; từng bước nâng cao và mở rộng dịch vụ chăm sóc NCT tại nhà.
– Đào tạo, tập huấn chuyên môn cho người làm công tác chăm sóc sức khỏe NCT ở các tuyến: Bệnh viện Lão khoa Trung ương, các bệnh viện trừ bệnh viện chuyên khoa nhi, Trung tâm y tế tuyến huyện, trạm y tế cấp xã; cơ sở chăm sóc sức khỏe; cán bộ dân số và tình nguyện viên ở cơ sở; đưa nội dung lão khoa vào chương trình đào tạo cho sinh viên đại học và sau đại học trong hệ thống các trường y trên cả nước; đa dạng hóa nguồn lực tài chính đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe NCT.
– Hoàn thiện chính sách pháp luật liên quan đến chăm sóc sức khỏe NCT: Xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật; hướng dẫn chuyên môn, kỹ thuật về chăm sóc sức khỏe NCT. Xây dựng hệ thống: chỉ báo thống kê, giám sát; thông tin, cơ sở dữ liệu điện tử quản lý công tác chăm sóc sức khỏe NCT.
Thanh Thủy
11:18 ngày 08/12/2020
@TS Đinh Huy Dương : Xin được hỏi TS Đinh Huy Dương, hiện nay, nước ta đã duy trì mức sinh thay thế nhưng lại đang phải đối mặt với tình trạng chênh lệch mức sinh. Một số đô thị, mức sinh có xu hướng xuống thấp. Mức sinh thấp sẽ khiến lực lượng lao động suy giảm, khiến nước ta sớm để vuột mất thời kỳ “dân số vàng” đúng không thưa ông? Với những vùng mức sinh thấp, chúng ta sẽ có những giải pháp cụ thể như thế nào để góp phần đưa mức sinh về mức sinh thay thế?
Chương trình Điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 588/QĐ-TTg ngày 28 tháng 4 năm 2020 đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để góp phần đưa mức sinh thấp về mức sinh thay thế.
1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền
– Tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa việc chuyển hướng công tác dân số từ tập trung vào việc giảm sinh sang duy trì mức sinh thay thế. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện sinh đủ hai con ở những nơi có mức sinh thấp.
– Xây dựng, ban hành các văn bản chỉ đạo, kế hoạch với chỉ tiêu cụ thể về việc điều chỉnh mức sinh của địa phương, đơn vị cho từng giai đoạn cụ thể hướng đến mục tiêu đạt mức sinh thay thế – “mỗi gia đình, mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con”.
– Cấp ủy đảng, chính quyền chủ trì, huy động các ngành, đoàn thể, tổ chức tham gia thực hiện kế hoạch; giao nhiệm vụ cụ thể cho từng địa phương, đơn vị tổ chức thực hiện.
– Ban hành quy định đảm bảo sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện sinh đủ hai con, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc.
2. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động thay đổi hành vi
– Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sâu, rộng các nội dung của Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới, đặc biệt tuyên truyền thực hiện vận động sinh thêm con ở những nơi mức sinh đã xuống thấp.
– Phát triển hệ thống thông điệp truyền thông, nội dung tuyên truyền vận động cho khu vực có mức sinh đã xuống thấp với khẩu hiệu vận động là “Mỗi gia đình, cặp vợ chồng sinh đủ hai con”.
– Tập trung tuyên truyền lợi ích của việc sinh đủ hai con; các yếu tố bất lợi của việc kết hôn, sinh con quá muộn; sinh ít con đối với phát triển kinh tế – xã hội, đối với gia đình và chăm sóc bố, mẹ khi về già.
– Tập trung vận động nam, nữ thanh niên không kết hôn muộn, không sinh con muộn, mỗi cặp vợ chồng sinh đủ hai con và nuôi dạy con tốt.
– Đối tượng tuyên truyền, vận động chủ yếu là nam, nữ thanh niên chưa kết hôn; gia đình, cặp vợ chồng chưa sinh đủ hai con.
– Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vận động với các hình thức đa dạng, phong phú, sinh động, hấp dẫn và thuyết phục phù hợp với văn hóa, tập quán, từng nhóm đối tượng ở vùng mức sinh thấp.
3. Điều chỉnh, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích
– Rà soát, đề xuất sửa đổi các quy định không còn phù hợp với mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế, đặc biệt là các quy định xử lý vi phạm chính sách dân số hiện hành.
– Cụ thể hóa các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phù hợp với đặc điểm mức sinh của các địa phương có mức sinh thấp.
– Rà soát, bãi bỏ các chính sách khuyến khích sinh ít con ở vùng mức sinh thấp và vùng mức sinh thay thế. Từng bước ban hành, thực hiện các chính sách khuyến khích sinh đủ hai con áp dụng cho các gia đình, cộng đồng:
+ Bãi bỏ các quy định của các tổ chức, cơ quan, đơn vị, cộng đồng liên quan đến mục tiêu giảm sinh, tiêu chí giảm sinh con thứ 3 trở lên,…
+ Sửa đổi, bổ sung các chính sách hỗ trợ, khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ hai con trên cơ sở phân tích, đánh giá tác động của các chính sách về lao động, việc làm, nhà ở; phúc lợi xã hội; giáo dục; y tế;…đến việc sinh ít con.
+ Xây dựng, triển khai các mô hình can thiệp thích hợp khuyến khích gia đình, cặp vợ chồng sinh đủ hai con.
– Thí điểm và từng bước mở rộng các biện pháp hỗ trợ các cặp vợ chồng sinh đủ hai con ở vùng mức sinh thấp. Trên cơ sở sơ kết, đánh giá các biện pháp thí điểm hỗ trợ, ban hành các chính sách hỗ trợ phù hợp. Một số nội dung hỗ trợ, khuyến khích cần thí điểm như sau:
+ Hỗ trợ để tạo môi trường nam, nữ thanh niên giao lưu, kết bạn, hẹn hò và tiến tới hôn nhân; khuyến khích nam, nữ kết hôn trước 30 tuổi; không kết hôn muộn và sớm sinh con; phụ nữ sinh con thứ hai trước 35 tuổi,…
+ Xây dựng môi trường, cộng đồng phù hợp với các gia đình nuôi con nhỏ.
+ Hỗ trợ phụ nữ khi mang thai, sinh con: Tư vấn, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em bao gồm sàng lọc vô sinh, sàng lọc trước sinh và sau sinh, phòng chống suy dinh dưỡng; tạo điều kiện trở lại nơi làm việc cho phụ nữ sau khi sinh con; giảm thuế thu nhập cá nhân; miễn giảm các khoản đóng góp công ích theo hộ gia đình…
+ Hỗ trợ, khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ hai con: mua nhà ở xã hội, thuê nhà ở; ưu tiên vào các trường công lập, hỗ trợ chi phí giáo dục trẻ em; xây dựng mô hình quản lý, phát triển kinh tế gia đình.
4. Mở rộng tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình và các dịch vụ có liên quan
– Phổ cập dịch vụ kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản tới mọi người dân đảm bảo công bằng, bình đẳng trong tiếp cận, sử dụng dịch vụ.
– Xây dựng và triển khai các loại hình phòng, tránh vô sinh từ tuổi vị thành niên tại cộng đồng; đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, phát triển mạng lưới hỗ trợ sinh sản.
– Đối với địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo: Tổ chức các loại hình cung cấp dịch vụ phù hợp; tư vấn, kiểm tra sức khỏe, phát hiện sớm, phòng tránh các yếu tố nguy cơ dẫn đến sinh con dị tật, mắc các bệnh, tật ảnh hưởng đến việc suy giảm chất lượng nòi giống.
Tiến Dũng
11:07 ngày 08/12/2020
@TS Đinh Huy Dương : Thưa TS Đinh Huy Dương, để tận dụng những lợi thế của thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”, đem lại sự phát triển của đất nước, thời gian qua, ngành Dân số đã có những giải pháp thiết thực như thế nào?
Nghị quyết số 21-NQ/TW về Công tác dân số trong tình hình mới của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII nhấn mạnh: Phát huy tối đa lợi thế cơ cấu “dân số vàng”, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Để thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng dân số, ngành Dân số đã đề ra các chính sách tiếp tục duy trì mức sinh thay thế nhằm kéo dài thời gian cơ cấu “dân số vàng”.
Ngành Dân số cũng đã tập trung truyền thông và triển khai các dịch vụ về tư vấn, khám sức khỏe tiền hôn nhân để phát hiện và can thiệp sớm bệnh tật của hệ thống sinh sản và các bệnh di truyền; tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh để phát hiện và can thiệp sớm các dị tật bẩm sinh; hạn chế tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết trong cộng đồng một số dân tộc ít người, nâng cao chất lượng dân số dân tộc ít người; phát huy vai trò và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi…
Trần Nam Anh
11:04 ngày 08/12/2020
@PGS.TS Lưu Bích Ngọc : Thưa PGS.TS Lưu Bích Ngọc, được biết, để tận dụng thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”, việc lồng ghép các biến dân số vào các chính sách phát triển kinh tế – xã hội là rất cần thiết. Vậy xin hỏi, thời gian qua, chúng ta đã thực hiện lồng ghép biến dân số vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước hay chưa? Thời gian tới, cần chú trọng vào những hoạt động cụ thể nào thưa bà?
Chúng ta có thực hiện lồng ghép các biến dân số và kế hoạch hoá phát triển đất nước. Đó là đã tính tới các biến dân số (quy mô, cơ cấu, phân bố, biến động dân số) vào trong các Chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, phải nói việc lồng ghép này còn thiếu đồng bộ, bài bản và thiếu tính hệ thống từ Trung ương xuống tới địa phương. Việc lồng ghép chưa đi vào bản chất, đó là phải tính toán các biến dân số như những yếu tố nguồn lực đầu vào cơ bản, đồng thời cũng là những yếu tố đầu ra của quá trình phát triển.
Tương lai, đẩy mạnh lồng ghép các biến dân số vào kế hoạch hoá phát triển là yêu cầu cấp thiết. Sự chỉ đạo mạnh mẽ của lãnh đạo cấp cao về vấn đề này đã thể hiện trong Nghị quyết 21 của TW Đảng khoá XI. Vấn đề là những hành động triển khai!
Giải pháp cần chú trọng cho thực hiện lồng ghép các biến dân số và kế hoạch hoá phát triển lúc này là:
1/ Tăng cường tuyên truyền, vận động bằng nhiều hình thức để thay đổi tư duy, nâng cao nhận thức và quyết tâm của các cấp lãnh đạo các ban ngành đoàn thể về thực hiện lồng ghép.
2/ Tăng cường nâng cao năng lực cán bộ bằng các khoá tập huấn bồi dưỡng về lồng ghép các biến dân số vào kế hoạch hoá phát triển cho các công chức, cán bộ các cấp (từ TW đến địa phương, cơ sở).
3/ Phát triển các module về lồng ghép các biến dân số vào kế hoạch hoá phát triển trong các chương trình đào tạo bậc cử nhân, các chương trình bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước (chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp, lãnh đạo cấp phòng/ban, lãnh đạo cấp vụ/cục, cán bộ chiến lược, trung cấp và cao cấp lý luận chính trị…).
4/ Đẩy mạnh việc kiểm tra giám sát thực hiện Nghị quyết 21 và duy trì chỉ đạo cấp cao đối với việc thực hiện Nghị quyết 21 về nội dung lồng ghép các biến dân số và kế hoạch hoá phát triển ở các cấp.
Mai Đức Hạnh
11:01 ngày 08/12/2020
@PGS.TS Lưu Bích Ngọc : PGS.TS Lưu Bích Ngọc: Được biết, mỗi năm nước ta có từ 1,5 – 1,6 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Tuy nhiên lực lượng này vẫn chưa tạo nên sức bật cho nền kinh tế, vì có trên 70% là lao động giản đơn. Theo bà, đâu là “khoảng trống” tạo nên thực trạng này?
Số lượng lao động lớn hàng năm bước vào hoạt động kinh tế vừa có lợi thế cho phát triển kinh tế về mặt quy mô lao động song cũng mang theo một thách thức đó là sức ép lên đối với nền kinh tế dưới góc độ số lượng việc làm được tạo ra. Chỉ khi “khớp nối” được yếu tố cung (lao động) với cầu (việc làm) thì lúc đó sức mạnh mới được phát huy.
70% số người trong độ tuổi lao động vẫn là những lao động giản đơn do chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta còn hạn chế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật (trung cấp lên cao đẳng, đại học) vẫn chỉ đạt được 22,2% vào năm 2019.
Chính thách thức trong “khớp nối” cung và cầu trong thị trường lao động và những hạn chế trong chất lượng, cụ thể ở đây là trình độ, kỹ năng của người lao động đã khiến cho năng suất lao động xã hội của Việt Nam thấp (năm 2018 năng suất lao động của Việt nam bằng 1/30 lần Singapore, 29% năng suất lao động của Thái lan, 13% năng suất lao động của Malaysia; 44% của năng suất lao động của Philippines), sức cạnh tranh của nền kinh tế so với các quốc gia khác bị hạn chế. Đây là trở ngại cho sức bật của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đã phải được xác định là một trong 3 đột phá chiến lược cho phát triển ở Việt Nam hiện nay và tương lai 10 năm tới.
Nguyễn Thu Hiền
11:01 ngày 08/12/2020
@PGS.TS Lưu Bích Ngọc : PGS.TS Lưu Bích Ngọc, được biết, trên thế giới có nhiều nước đã từng thành công trong việc phát huy lợi thế của thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”, đem lại sự phát triển kinh tế xã hội vượt bậc. Xin bà có thể đưa ra một số quốc gia cụ thể và bài học kinh nghiệm mà Việt Nam rút ra được từ những quốc gia trên?
Nhật Bản và Hàn Quốc là những quốc gia đã tận dụng được cơ cấu dân số vàng cho phát triển khi mà dư lợi dân số đã đóng góp tới 30% cho tăng trưởng “thần kỳ” ở những quốc gia này.
Nhật Bản hiện là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới có dân số già nhất thế giới với tỷ lệ người cao tuổi là hơn 22% tổng dân số, tuổi thọ trung bình là 86,1 vào năm 2008. Nhật Bản đã kết thúc thời kỳ có “cơ cấu dân số vàng” bởi nó đã diễn ra trong giai đoạn 1965-2000 – giai đoạn chứng kiến sự bùng nổ kinh tế của Nhật Bản trong vòng 30 năm, từ 1955 đến cuối những năm 1980 khi Nhật Bản đã tận dụng được nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển công nghiệp. Sau đó TFR chỉ còn 1,21 (năm 2008) nên Nhật Bản lại đối mặt với tình trạng dân số già rất nhanh. Tuy vậy, Nhật Bản cũng trở thành quốc gia “giàu sau khi đã già”.
Hàn Quốc là một nước điển hình khác của khu vực Đông Á trong việc tận dụng “cơ cấu dân số vàng”. “Cơ cấu dân số vàng” của Hàn Quốc diễn ra trong vòng 49 năm (1965-2014). Từ một nước nghèo với thu nhập bình quân đầu người khoảng 170 USD/năm vào năm 1955, Hàn Quốc vươn lên trở thành quốc gia có nền kinh tế đứng thứ ba ở Châu Á và thứ 13 trên thế giới hiện nay. Từ giữa những năm 1960, các chiến lược phát triển kinh tế 5 năm của Hàn Quốc đều theo định hướng công nghiệp hóa nhanh dựa trên xuất khẩu. Kết quả là Hàn Quốc nhanh chóng trở thành một cường quốc kinh tế trong khu vực và là một trong bốn nước công nghiệp mới (NICs) vào những năm 1980. Sự vươn lên mạnh mẽ của Hàn Quốc khẳng định bằng sự khác biệt về tri thức, bí quyết cũng như sự tích tụ nhanh nguồn vốn và lao động trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Có được kết quả này, ngoài những chính sách đã nêu, chính phủ Hàn Quốc đã nỗ lực xây dựng các chiến lược đầu tư nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua y tế và giáo dục.
Phan Minh Huyền
11:01 ngày 08/12/2020
@PGS.TS Lưu Bích Ngọc : Xin được hỏi PGS.TS Lưu Bích Ngọc, được biết, nước ta đã bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” từ năm 2007. Nghĩa là, 13 năm qua, nước ta đang trong thời kỳ này. Xin bà cho biết, “dân số vàng” đã đem đến cho Việt Nam những lợi thế như thế nào. Những tác động tích cực của thời kỳ này qua kết quả thực tiễn như thế nào thưa bà?
Trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, tính trung bình hàng năm đất nước có thêm hơn 1,5 triệu lao động. Số lượng lao động lớn, giá nhân công rẻ đã tạo nên lợi thế cho Việt Nam trong cạnh tranh toàn cầu, thu hút FDI vào Việt Nam thập kỷ vừa qua. Ước tính, trước năm 2019, mỗi năm số lượng lao động – yếu tố nhân lực đã đóng góp cho đất nước khoảng 1,5-2% tăng trưởng.
Tuy nhiên, dư lợi dân số về mặt số lượng hiện nay đã không còn nữa. Đóng góp của dân số – lực lượng lao động vào tăng trưởng đã về 0% vào năm khoảng 2019-2020 và sẽ mang giá trị (-) những năm sau đó. Đóng góp của dân số cho tăng trưởng và phát triến sau đây chỉ còn hy vọng vào chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo bài bản.
Lê Thị Lan Anh
11:01 ngày 08/12/2020
@PGS.TS Lưu Bích Ngọc : PGS.TS Lưu Bích Ngọc: Có chuyên gia nhận định rằng, để nâng cao chất lượng nguồn lao động, cần xây dựng hệ thống giáo dục theo hướng chú trọng chất lượng, phát triển và tái cấu trúc hệ thống đào tạo chuyên nghiệp. Bà có đồng ý với quan điểm này không?
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần thực hiện các giải pháp về giáo dục và đào tạo một cách tổng thể và hệ thống. Chất lượng nguồn nhân lực phải được xây dựng từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và tiếp theo là giáo dục thường xuyên.
Giáo dục và đào tạo cần đổi mới theo triết lý giáo dục hiện đại. Chất lượng giáo dục và đào tạo đương nhiên cần chú trọng. Chất lượng giáo dục và đào tạo có được từ đổi mới nội dung giảng dạy, phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá, thi cử, cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị dạy học, môi trường văn hoá học đường…
Cách mạng công nghiệp 4.0 đang thể hiện sức mạnh của nó với rất nhiều cơ hội song cũng bộn bề thách thức trong mọi mặt của cuộc sống. Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo đang là chủ đề được Chính phủ bàn thảo để thực thi mà kết quả chính là giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo sẽ làm thay đổi hoàn toàn cấu trúc hệ thống, nội dung, phương pháp giáo dục. Hãy hình dung, chuyển đổi số trong giáo dục sẽ dẫn tới “nơi học” không phải là những ngôi trường hàng ngày người học phải đến lớp; “thầy cô” không phải là những con người đứng trước mặt các học sinh trên bục giảng. Giáo dục và đào tạo sẽ trở thành một hệ thống MỞ, kết nối (đến toàn cầu) và liên thông (các bậc, trình độ). “Bánh xe lịch sử” đã bắt đầu lăn, chúng ta không thể dừng lại được!
Hoàng Hải Yến
10:34 ngày 08/12/2020
@PGS.TS Lưu Bích Ngọc : Thưa PGS.TS Lưu Bích Ngọc, hệ thống giáo dục đóng vai trò như thế nào đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cả nước. Hiện, ngành giáo dục đã làm tốt vai trò này hay chưa?
Giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia. Trong 10 năm trở lại đây, thực hiện Nghị quyết 29 của TW Đảng khoá XI về đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH và hội nhập quốc tế, giáo dục và đào tạo đang có những thay đổi đáng kể:
1/ Thực hiện xong phổ cập từ trẻ mầm non 5 tuổi đến hết bậc trung học cơ sở.
2/ Chuẩn bị triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới, chuyển từ mục tiêu truyền thụ kiến thức sang mục tiêu giáo dục phẩm chất và nâng cao năng lực cho học sinh. Năm học 2020-2021 là năm đầu tiên thực hiện chương trình.
3/ Giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp đã có chuyển biến tích cực về chất lượng. Các trường đại học Việt Nam đã bước vào các bảng xếp hạng quốc tế. Giáo dục nghề nghiệp đã có sự đổi mới kết nối với doanh nghiệp. Sinh viên tốt nghiệp các cơ sở giáo dục nghề nghiệp hay đại học đã đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là “đào tạo ban đầu”. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ở mọi độ tuổi sẽ cần có đào tạo lại, đào tạo nâng cao và học tập suốt đời. Những định hướng đổi mới giáo dục và đào tạo phục vụ cho nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vẫn đang được tiếp tục triển khai.
Nguyễn Trung Thành
10:27 ngày 08/12/2020
@TS Phạm Xuân Khánh : Thưa TS Phạm Xuân Khánh, “dân số vàng” sẽ không có giá trị nếu không thực sự “vàng” về tri thức và tay nghề. Điều này có đúng không thưa ông?
Theo tôi việc này rất đúng.
Như tôi đã nói ở trên, hiện tại, Việt Nam đang ở trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng” khi có 69% dân số trong tuổi lao động (trên 64 triệu người/tổng số dân khoảng 96,2 triệu người). Đây được xem là cơ hội thuận lợi để nâng cao hiệu quả lao động, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế cho đất nước.
Tuy nhiên, mối lo nếu “dân số vàng” nhưng không thực sự “vàng” về tri thức và tay nghề: Một thực tế là không ít những người học càng cao thì khi ra trường cơ hội có được việc làm tương xứng lại càng khó, nhiều sinh viên đại học ra trường 2-3 năm nhưng vẫn chưa thể kiếm được việc làm. Bức tranh toàn cảnh về thị trường lao động Việt Nam mới nhất do Bộ LĐTB&XH phối hợp với Tổng cục Thống kê công bố ngày 4/4/2019 cho thấy, số người thất nghiệp dài hạn, trên 12 tháng có xu hướng gia tăng, chiếm 34,42% tổng số người thất nghiệp. Trong đó, tỉ lệ thất nghiệp cao nhất vẫn ở nhóm có trình độ đại học, cao đẳng.
“Cầm vàng, đừng để vàng rơi” vì “dân số vàng” không chỉ mang lại toàn “màu hồng” hy vọng cho Việt Nam mà cũng đem đến không ít thách thức. Nếu không tận dụng tốt cơ hội, kinh tế và xã hội Việt Nam sẽ bị nhấn chìm trong khó khăn khi “dân số vàng” trở thành “dân số già”.
Vì vậy, để biến cơ hội dân số vàng thành động lực tăng trưởng thì đầu tiên cần làm là cải thiện chất lượng lao động, góp phần cải thiện khu vực sản xuất của nền kinh tế.
Thu Huệ
10:21 ngày 08/12/2020
@TS Đinh Huy Dương : Xin được hỏi TS Đinh Huy Dương, thời gian qua, các phương tiện thông tin đại chúng thường có thông tin rằng: “Việt Nam chưa giàu đã già”. Tốc độ già hóa dân số của Việt Nam thuộc hàng nhanh nhất thế giới. Xin ông cho biết, phải chăng, già hóa dân số nhanh đang là thách thức lớn đối với việc giữ được cơ cấu “dân số vàng” ở nước ta hiện nay?
Trong khi cơ cấu “dân số vàng” mang lại những cơ hội to lớn cho tiết kiệm, tích lũy nguồn lực lao động, tăng thị trường tiêu thụ, thúc đẩy phát triển kinh tế thì già hóa dân số nhanh ở Việt Nam lại đặt ra thách thức về một “dân số chưa giàu nhưng đã già”. Khi già hóa dân số diễn ra nhanh, có nghĩa là tỷ số phụ thuộc của nhóm dân số trên 65 tuổi tăng cao thì cơ cấu “dân số vàng” sẽ bị thách thức. Già hóa dân số dẫn đến mất lợi thế “dân số vàng”, thiếu lao động…
Việt Nam cũng là một trong những nước có tốc độ già hóa nhanh. Dự báo đến năm 2030, tỷ lệ người cao tuổi Việt Nam chiếm 18% và năm 2050 là 26%. Với các nền kinh tế phát triển mất vài thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ để chuyển từ giai đoạn già hóa dân số sang giai đoạn dân số già thì với tốc độ già hóa ở Việt Nam chỉ mất khoảng 20 năm. Các chuyên gia cũng cảnh báo thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” ở Việt Nam sẽ không kéo dài và quá trình già hóa dân số sẽ diễn ra nhanh chóng từ năm 2040 trở đi. Đây là cũng thời điểm Việt Nam kết thúc thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Chính vì vậy, Việt Nam phải nắm bắt lấy cơ hội xây dựng kế hoạch chuẩn bị cho thời kỳ chuyển đổi cơ cấu dân số.
Để kéo dài thời gian cơ cấu “dân số vàng” và làm chậm quá trình “già hóa dân số” việc cần làm là duy trì mức sinh thay thế.
Phạm Trung Kiên
10:10 ngày 08/12/2020
@TS Phạm Xuân Khánh : Thưa TS Phạm Xuân Khánh, dưới góc độ là đơn vị đào tạo chất lượng nguồn nhân lực, Trường Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà Nội hiện đang chú trọng vào những lĩnh vực đào tạo như thế nào? Chất lượng nhân lực đầu ra được đánh giá ra sao thưa ông?
Cảm ơn bạn đã quan tâm tới trường chúng tôi.
Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà Nội là đơn vị luôn tiên phong trong đào tạo nghề chất lượng cao. Mục tiêu của nhà trường là 100% sinh viên ra trường có việc làm và có thể tự tạo việc làm. Hiện nay, Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà Nội tuyển sinh và đào tạo 32 nghề. Trong đó có các nghề mới có nhu cầu tuyển dụng lao động cao như nghề kết nối vạn vật IOT, chế tạo khuôn mẫu, tự động hoá công nghiệp, quản lý toà nhà, các nghề chăm sóc sắc đẹp, phát triển ứng dụng di động, thương mại điện tử, ngôn ngữ tiếng Hàn, tiếng Nhật, tiếng Đức…
Về chất lượng đào tạo của Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà Nội luôn được xã hội, các doanh nghiệp đánh giá cao. Nhiều nghề có tỷ lệ việc làm 100% trước khi ra trường, không đủ cung cấp cho các doanh nghiệp như nghề Cắt gọt kim loại, Chế tạo khuôn mẫu, Công nghệ Hàn, Kỹ thuật máy lạnh và điều hoà không khí, Điện tử công nghiệp, Thiết kế đồ hoạ, Thương mại điện tử, Chăm sóc sắc đẹp và các nghề ngôn ngữ: Tiếng Hàn, Tiếng Nhật…
Hiện nhà trường đang gắn kết chặt chẽ với hơn 400 doanh nghiệp trong nước, nước ngoài. Trong đó, có các chương trình hợp tác nổi bật như: Chương trình hợp tác đào tạo với Công ty Hanwha Aero Engines (1 trong 7 tập đoàn kinh tế lớn nhất của Hàn Quốc) triển khai chương trình đào tạo 800 sinh viên trong 5 năm (2019-2024). Doanh nghiệp chịu trách nhiệm chi trả 100% chi phí đào tạo cho người học, người học được ký hợp đồng lao động ngay khi nhập học. Năm học 2020-2021, nhà trường tuyển sinh và đào tạo khoảng 500 sinh viên theo mô hình đào tạo này cho các doanh nghiệp như Tổng Công ty Cơ điện Xây dựng (Agrimeco), Home Care, PMTT, PMC… và sẽ ưu tiên tuyển sinh viên các vùng sâu, vùng xa, con em các hộ nghèo, các vùng nông thôn bị thu hồi đất. Có thể nói đây là một giải pháp giúp thoát nghèo bền vững!
Bùi Vân Hà
10:06 ngày 08/12/2020
@TS Phạm Xuân Khánh : Xin hỏi TS Phạm Xuân Khánh, hiện nay, nguồn lao động nước ta đang có lợi thế nhất ở lĩnh vực nào? Ngành nghề, lĩnh vực ấy đã phát huy tối đa lợi thế về nguồn lao động hay chưa?
Theo tôi nguồn lao động nước ta đang có lợi thế nhất ở 5 ngành, nghề, lĩnh vực cần tập trung trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư là: Công nghệ thông tin, ngân hàng, du lịch, nông nghiệp và logistics.
Trong đó, theo khảo sát có đến 89,9% các đơn vị được hỏi chọn công nghệ thông tin; tiếp đến là tài chính, ngân hàng chiếm 47%; 45,7% các đơn vị chọn du lịch; 44,9% chọn nông nghiệp và 28,3% chọn logistics.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy: Đã có 35,2% cơ quan, đơn vị đã chuẩn bị và sẵn sàng cho cách mạng công nghiệp 4.0. Trong đó, phần đa là các doanh nghiệp thuộc khối ngân hàng, một số doanh nghiệp công nghệ thông tin; chiếm số đông nhất là các doanh nghiệp, cơ quan ứng dụng cùng một số cơ quan quản lý công nghệ thông tin.
Các ngành nghề này đã phát huy tối đa lợi thế của người lao động, đặc biệt là ngành du lịch, nông nghiệp, công nghệ thông tin… Cụ thể, những sinh viên ngành công nghệ mà trường đào tạo thường 100% xin được việc làm ngay cả khi chưa tốt nghiệp.
Bạch Hồng Hoa
10:01 ngày 08/12/2020
@PGS.TS Lưu Bích Ngọc : Thưa PGS.TS Lưu Bích Ngọc, theo các nhà nhân khẩu học, trên thế giới, cơ cấu “dân số vàng” thường kéo dài từ 30 – 35 năm, thậm chí là 40 – 50 năm. Còn ở nước ta thì sao thưa bà? Dự báo “dân số vàng” ở nước ta kéo dài trong bao lâu?
Năm 2006, tỷ số phụ thuộc của Việt Nam chỉ còn 49,9 nghĩa là Việt Nam đã bước vào giai đoạn cơ cấu dân số vàng. Một câu hỏi được đặt ra là thời kỳ cơ cấu dân số vàng ở nước ta kéo dài bao lâu? Với mức sinh TFR trung bình ở khoảng 2,0-2,1 con/phụ nữ, Việt Nam được dự báo có thời kỳ cơ cấu dân số vàng trong khoảng 35 năm và sẽ kết thúc vào khoảng năm 2041-2042. Như vậy, đã trải qua 15 năm của thời kỳ cơ cấu dân số vàng mà chưa tận dụng được bao nhiêu. Việt Nam còn lại cơ hội trong 15 năm tới. Theo dự báo, cơ cấu dân số của Việt Nam sẽ chuyển sang thời kỳ dân số già.
Văn Bằng
09:57 ngày 08/12/2020
@TS Đinh Huy Dương : TS Đinh Huy Dương: Xin ông cho biết, mối quan hệ giữa việc duy trì mức sinh thay thế, tận dụng cơ cấu dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số ở nước ta hiện nay?
Năm 2006, Việt Nam đã đạt và duy trì mức sinh thay thế từ đó đến nay. Bắt đầu từ năm 2007, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Dân số nước ta vừa bắt đầu bước vào thời kỳ “dân số vàng” vào năm 2006 thì chưa đầy 5 năm sau (2011) đã chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số khi tỉ trọng nhóm dân số 65 tuổi trở lên chiếm 7%. Nước ta là một trong số những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới.
Để kéo dài và phát huy lợi thế của cơ cấu “dân số vàng” cần thực hiện đồng bộ các giải pháp. Đó là, duy trì mức sinh hợp lý nhằm kéo dài thời gian cơ cấu “dân số vàng”, làm chậm quá trình “già hóa dân số”. Nước ta đang trong ngưỡng già hóa dân số, nhưng thời kỳ “dân số vàng” vẫn còn kéo dài đến giai đoạn 2037 – 2040. Để giữ vững cơ cấu “dân số vàng” thì việc duy trì mức sinh thay thế vẫn là giải pháp hữu hiệu nhất.
Thời kỳ “dân số vàng” và già hóa dân số ở nước ta diễn ra cùng một lúc, vậy nên cần có những chính sách nhằm tận dụng ở mức cao nhất đối với bộ phận dân số là người cao tuổi, khuyến khích họ tham gia vào phát triển kinh tế, xã hội, nhất là đối với những người còn sức khỏe, có nhiều kiến thức, kinh nghiệm. Những giải pháp khai thác triệt để cơ hội của cơ cấu “dân số vàng”, không chỉ nhằm phát huy lực lượng lao động dồi dào ở giai đoạn này để làm ra khối lượng của cải vật chất nuôi sống bản thân họ, mà quan trọng hơn là tạo nên nguồn lực thặng dư để bảo đảm cuộc sống cho các nhóm dân số phụ thuộc trong cùng thời kỳ.
Mục tiêu của chính sách dân số trong thời gian tới là: Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng; thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Nguyễn Thị Xuân Hà
09:52 ngày 08/12/2020
@TS Phạm Xuân Khánh : Xin chào Tiến sĩ. Thưa TS Phạm Xuân Khánh, được biết, nước ta đang trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Ông đánh giá như thế nào về chất lượng nguồn lao động “vàng” của nước ta hiện nay?
Vâng, đúng như bạn nói, nước ta đang trong thời kỳ dân số vàng.
Dân số “vàng” là thời kỳ cơ cấu dân số thể hiện số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ trọng cao hơn số người phụ thuộc.
Theo các chuyên gia dân số, Việt Nam đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng. Ðặc điểm nổi bật trong thời kỳ “cơ cấu vàng” là dân số có khả năng lao động (từ 15 đến 64 tuổi) chiếm tỷ lệ cao, hiện nay chiếm khoảng 69% tổng dân số. Giai đoạn này đem đến cơ hội là nguồn lao động dồi dào, tạo ra lượng của cải vật chất lớn để tích lũy cho tương lai, góp phần tăng trưởng kinh tế cho đất nước.
Chất lượng nguồn lao động “vàng” của nước ta trong những năm qua đã từng bước được nâng lên; lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Loại hình đào tạo, cơ cấu trình độ, ngành nghề, chất lượng và hiệu quả đào tạo đã có những chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả đáng kể. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa học – công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc phức tạp trong các doanh nghiệp đòi hỏi lao động trực tiếp tay nghề cao ở các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, những nơi mà trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài…
Phạm Bích Hường
09:48 ngày 08/12/2020
@PGS.TS Lưu Bích Ngọc : Xin được hỏi PGS.TS Lưu Bích Ngọc, tôi từng nghe có nhà nhân khẩu học nhận định rằng: “Để đưa đất nước đi lên, phát triển bền vững, tránh được “bẫy thu nhập trung bình” và đương đầu được với thách thức “dân số siêu già” của thời kỳ “hậu dân số vàng”, cần tận dụng những vận hội do cơ cấu “dân số vàng” mang lại”. Xin bà có thể giải thích cho độc giả được hiểu, thế nào là “bẫy thu nhập trung bình”. Điều này tác động như thế nào trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” cũng như sự phát triển chung của đất nước?
“Bẫy thu nhập trung bình” là trạng thái một nền kinh tế đã vượt qua mốc thu nhập thấp (dưới 1.025 USD/người) để trở thành nước có thu nhập trung bình (1.025 – 12.475 USD/người), nhưng bị mắc kẹt ở mức thu nhập này, không thể tiếp tục vươn lên thành nước có thu nhập cao (trên 12.475 USD/người). Sự “mắc kẹt” này có các yếu tố như: không còn lợi thế về giá nhân công rẻ như những nước có thu nhập thấp; cũng không có ưu thế về cơ sở hạ tầng, về nguồn nhân lực trình độ cao và kỹ thuật – công nghệ hiện đại như những nước có thu nhập cao.
Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp từ năm 2008 (tính theo GDP bình quân đầu người vào năm đó đạt 1.145 USD/người) và được đánh giá là đang có nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” do :
– Thứ nhất, tăng trưởng GDP Việt Nam đã bị chậm lại sau khi ra khỏi nhóm nước thu nhập thấp;
– Thứ hai, chênh lệch về mức GDP bình quân đầu người (tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương) giữa Việt Nam với một số nước từ năm 2005 đến dự báo năm 2017 tăng lên, có nghĩa là Việt Nam tụt hậu so với các nước.
– Thứ ba, chất lượng tăng trưởng thể hiện ở hiệu quả đầu tư và năng suất lao động. Mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng vốn và tăng số lượng lao động, còn yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) chiếm tỷ trọng thấp;
– Thứ tư, đang tồn tại một số vấn đề cản trở sự tăng bậc lên mức thu nhập cao hơn, cụ thể như chất lượng nguồn nhân lực chưa cao; cơ cấu “dân số vàng” đã qua ½ chặng đường (đã qua 15 năm), nhưng có dấu hiệu bước vào thời kỳ già hóa tương đối nhanh, làm xuất hiện tình trạng “chưa giàu đã già”.
Nguyên nhân thứ 3 và thứ 4 chính là những yếu tố dân số tác động và phát triển.
Hà Thu
09:42 ngày 08/12/2020
@TS Đinh Huy Dương : Thưa TS Đinh Huy Dương, xin ông cho biết, nước ta đã bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” từ khi nào và đặc điểm “dân số vàng” của nước ta hiện nay ra sao?
Cơ cấu “dân số vàng” được hiểu là số người trong độ tuổi lao động tăng gấp hai lần số người phụ thuộc.
Có ba tỉ số phụ thuộc, đó là:
+ Tỉ số phụ thuộc trẻ em (được tính bằng tỉ số giữa số trẻ em với 100 người trong độ tuổi lao động);
+ Tỉ số phụ thuộc già (được tính bằng tỉ số giữa số người cao tuổi với 100 người trong độ tuổi lao động);
+ Tỉ số phụ thuộc chung (được tính bằng tổng hai tỉ số phụ thuộc trên). 2 tỉ số phụ thuộc chung cho biết trung bình 100 người trong độ tuổi lao động phải “gánh đỡ” cho bao nhiêu người ngoài độ tuổi lao động.
Khi tỉ số phụ thuộc chung nhỏ hơn 50 thì “gánh nặng” thấp bởi trung bình một người ngoài độ tuổi lao động được “hỗ trợ” bởi hơn hai người trong độ tuổi lao động. Khi dân số đạt được tỉ số phụ thuộc chung như vậy, chúng ta coi dân số đó đang đạt “cơ cấu vàng”. Cơ cấu “dân số vàng” sẽ kết thúc khi tỉ số phụ thuộc chung bắt đầu tăng trở lại và vượt ngưỡng 50.
Bắt đầu từ năm 2007, với tỷ số phụ thuộc chung (nhóm dân số 0-14 tuổi và nhóm dân số trên 65 tuổi tính trên nhóm dân số 15-64) dưới 50%, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Theo dự báo thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” của Việt Nam sẽ kéo dài khoảng 30 – 40 năm.